Scholar Hub/Chủ đề/#hội chứng hellp/
Hội chứng HELLP (hemolysis, elevated liver enzymes, low platelet count) là một tình trạng y tế hiếm gặp nhưng nguy hiểm trong thai kỳ. Hội chứng này thường xuất...
Hội chứng HELLP (hemolysis, elevated liver enzymes, low platelet count) là một tình trạng y tế hiếm gặp nhưng nguy hiểm trong thai kỳ. Hội chứng này thường xuất hiện trong giai đoạn cuối của thai kỳ, thường nhất là sau tuần thứ 20, và là một biến chứng của bệnh tăng huyết áp có tổn thương gan.
HELPP thường gây hiệu ứng tổn thương các mô trong cơ thể, với những triệu chứng chính bao gồm: đau bụng phía trên đặc biệt phía phải, suy gan, suy thận, giảm áp huyết, ói mửa, thay đổi tâm trạng, sự mệt mỏi, sốt, nhức đầu, thay đổi tầng da nhờn và mất cân đối nước điện giải.
Nếu không được điều trị kịp thời, Hội chứng HELLP có thể gây nguy hiểm mạng sống cho cả mẹ và thai nhi. Trong trường hợp phát hiện những triệu chứng trên, cần tham khảo ý kiến bác sĩ để được tư vấn và điều trị sớm.
Hội chứng HELLP là một biến chứng hiếm gặp của bệnh tăng huyết áp trong thai kỳ (pre-eclampsia). Mặc dù chưa rõ nguyên nhân chính xác, nhưng được cho là do cơ chế miễn dịch và tác động của các yếu tố máu. Hội chứng này thường xuất hiện trong giai đoạn cuối của thai kỳ, nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời, có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho mẹ và thai nhi.
Hội chứng HELLP được đặt tên dựa trên các biểu hiện chính của nó:
1. Hemolysis (phá hủy hồng cầu): Là hiện tượng phá hủy hồng cầu trong máu. Điều này dẫn đến sự giảm số lượng hồng cầu và làm tăng mức hemoglobin miễn dịch trong máu.
2. Elevated liver enzymes (tăng men gan): Hội chứng HELLP gây tổn thương gan, làm tăng mức men gan trong máu. Điều này có thể gây ra các triệu chứng như đau bụng phía trên, buồn nôn, nôn mửa, và mức bilirubin cao.
3. Low platelet count (giảm số tiểu cầu): Hội chứng HELLP gây giảm số tiểu cầu trong máu, làm tăng nguy cơ chảy máu và khó đông máu.
Các triệu chứng khác của hội chứng HELLP có thể bao gồm đau đầu, nhức đầu, khó thở, mệt mỏi, phân thay đổi màu sắc (thường xanh da trước khi chảy máu), và tăng cân đột ngột do tác động của sự lưu giữ nước.
Để chẩn đoán hội chứng HELLP, các xét nghiệm máu sẽ được thực hiện để đánh giá bạch cầu, tiểu cầu, men gan, bilirubin và các chỉ số khác. Siêu âm cũng có thể được sử dụng để đánh giá sự phát triển của thai nhi.
Điều trị hội chứng HELLP liên quan đến việc giảm tác động của bệnh tăng huyết áp và bảo vệ sự phát triển của thai nhi. Điều này có thể bao gồm việc theo dõi chặt chẽ, đặt vào bệnh viện, nghỉ ngơi, giảm tải và theo dõi đáp ứng của cơ thể. Trong một số trường hợp nghiêm trọng, việc sinh non và cải thiện sức khỏe của mẹ và thai nhi có thể yêu cầu sinh non sớm hoặc phẫu thuật cắt bỏ tử cung.
Rất quan trọng để nhận ra và điều trị sớm hội chứng HELLP để giảm nguy cơ biến chứng nghiêm trọng cho mẹ và thai nhi. Việc theo dõi thai kỳ đều đặn và đi khám thai định kỳ là cách tốt nhất để phát hiện sớm các vấn đề sức khỏe và tìm hướng điều trị phù hợp.
Giao dịch huyết tương trong hội chứng HELLP sau sinh: một báo cáo ca bệnh Dịch bởi AI JA Clinical Reports -
Tóm tắt
Mục nền
Hội chứng tan máu sau sinh, tăng enzym gan, và giảm tiểu cầu (HELLP) khó điều trị hơn so với hội chứng HELLP trong thai kỳ. Chúng tôi mô tả một trường hợp hội chứng HELLP sau sinh đã đáp ứng với liệu pháp trao đổi huyết tương (PE).
Trình bày ca bệnh
Một phụ nữ sinh lần đầu 30 tuổi đã nhập viện do tăng huyết áp thai kỳ ở tuần thứ 33 và đã thực hiện sinh mổ khẩn cấp ở tuần thứ 36 và 6 ngày của thai kỳ do phù phổi tiến triển nhanh. Sau khi sinh, đã quan sát thấy suy chức năng gan và giảm nhanh số lượng tiểu cầu, và bệnh nhân được chẩn đoán mắc hội chứng HELLP nặng. Cô đã trải qua nhiều cơn suy tạng mặc dù được chăm sóc đặc biệt, và liệu pháp PE đã được khởi đầu. Tình trạng chung của cô nhanh chóng ổn định trong vòng vài giờ sau khi bắt đầu liệu pháp PE.
Kết luận
Có nhiều tranh cãi liệu liệu pháp PE có nên được sử dụng chủ yếu trong quản lý hội chứng HELLP hay không, nhưng việc khởi đầu sớm liệu pháp PE có thể có hiệu quả đối với hội chứng HELLP nặng.
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị hội chứng HELLP tại Bệnh viện Trung ương HuếMục tiêu: Khảo sát đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của hội chứng HELLP. Đánh giá kết quả điều trị hội chứng HELLP.
Phương pháp: Tiến hành nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang, tiến cứu trên 61 trường hợp có hội chứng HELLP theo tiêu chuẩn của trường đại học Mississippi, Tennessee từ 03/2011- 06/2012.
Kết quả: Các triệu chứng lâm sàng điển hình là nhức đầu (62,3%), đau vùng thượng vị 29,5%), nước tiểu đỏ đậm (13,1%). Chỉ số cận lâm sàng lúc nhập viện: Tiểu cầu 114,6±13,7 109/dl, SGOT 198,5±94,04 U/l, SGPT 110,3±52,4 U/l, LDH 681,7±149,8 UI/L.
Kết quả điều trị: Tỷ lệ tử vong mẹ 3,3%, Số trẻ sống 75,41%, Tỷ lệ chấm dứt thai kỳ bằng mổ lấy thai 67,9 %, Các chỉ số sinh hóa, huyết học trở về bình thường trước khi ra viện.
Kết luận: Nghiên cứu trên 61 bệnh nhân có hội chứng HELLP cho thấy các chỉ số tiểu cầu, SGOT, SGPT và LDH là những chất chỉ điểm quan trọng trong chẩn đoán và tiên lượng đáp ứng điều trị. Nếu tuổi thai từ 27 tới 34 tuần hầu hết tác giả sử dụng một đợt điều trị corticosteroid để hỗ trợ trưởng thành phổi, có thể dùng 2 liều 12 mg dexamethasone (Dexaron) cách nhau 12 giờ trước khi sinh. Tuy nhiên, chưa có đủ bằng chứng lâm sàng về phác đồ điều trị corticosteroid chuẩn ở hội chứng HELLP. Nên tránh điều trị corticosteroid liều cao và lập lại vì lo ngại những tác dụng phụ lâu dài trên não thai nhi. Tại khoa Phụ Sản bệnh viện Trung ương Huế, từ 3/2011 đến 6/2012 có 61 trường hợp được chẩn đoán hội chứng HELLP toàn phần và bán phần, tất cả các trường hợp này đều rất nặng và điều trị kéo dài, t = 10,1 +/- 1,46 ngày (4 – 46 ngày). Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chuyên khoa như sản khoa, gây mê hồi sức, huyết học, nhi sơ sinh để cùng phối hợp điều trị trong trường hợp điều trị bảo tồn ở các tuổi thai nhỏ hơn 34 tuần.
Nhận xét 5 trường hợp hội chứng HELLP tại Bệnh viện Đa khoa Hà Đông 2010 - 2013Hội chứng Hellp là một biến chứng sản khoa nặng. theo Sibai thì tỉ lệ vào khoảng 0,6-1,5% thai kỳ nói chung, theo Haram và Abildgaard Hellp chiếm 10- 20% các thai kỳ có biểu hiện tiền sản giật. Tần xuất xảy ra không cao nhưng khi đã xảy ra thì nguy cơ đe dọa tính mạng của sản phụ rất cao. Hiện nay, chúng ta đã có những bước tiến đáng kể trong chẩn đoán, xử trí Hội chứng Hellp, điều đó đã góp phần giảm đáng kể các tai biến do bệnh lý này gây ra. Tại bệnh viện chúng tôi, trong thời gian 4 năm từ 2010-2013, chúng tôi đã tiếp nhận và điều trị 5 trương hợp Hội chứng Hellp, mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng nhìn chung chúng tôi đã có nhưng thành công và rút ra được những bài học kinh nghiệm nhất định. Qua đó, góp phần nâng cao công tác chăm sóc, và điều trị bệnh nhân đặc biệt là Hội chứng Hellp nói riêng cũng như các biến chứng liên quan đến thai kỳ nói chung. Thứ nhất là công tác quản lý thai nghén cần chú trọng để phát hiện các đối tượng có các yếu tố nguy cơ tiền sản giật và tập trung vào tuổi thai 27-27 tuần. Thứ hai chúng tôi nhận thấy có 2 triệu chứng cơ năng gợi ý tiền sản giật tiến triển thành Hellp là đau thượng vị và đau đầu, xuất hiện sớm hơn các triệu chứng cận lâm sàng. Thứ ba trong xử trí Hội chứng Hellp thì tuổi thai có giá trị tiên lượng quan trọng trong kết cục của sản phụ và trẻ sơ sinh. Như vậy để góp phần chẩn đoán sớm và điều trị hiệu quả, chúng tôi nhận thấy vai trò quan trọng của công tác quản lý thai nghén, phát hiện sớm tăng huyết áp trong thai kỳ, tiến tới sàng lọc tiền sản giật hàng loạt cho các đối tượng nguy cơ cao.
Mô tả đặc điểm của hội chứng HELLP tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ươngMục tiêu: mô tả đặc điểm lâm sàng của hội chứng HELLP ở những thai phụ bị tiền sản giật từ năm 2001 – 2010. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu hồi cứu mô tả, dựa trên 180 hồ sơ bệnh án của các thai phụ đã được chẩn đoán TSG/SG có biến chứng hội chứng HELLP điều trị tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương từ năm 2001- 2010. Kết quả: Tỷ lệ con rạ gặp hội chứng HELLP cao hơn con so. Tiền sử nội khoa chiếm tỷ lệ cao nhất là tiền sử THA 63,6%. Có 34 trường hợp thai phụ có tiền sử sản khoa liên quan trong đó tỷ lệ tiền sử TSG/SG lần mang thai trước là 52,9%. Dấu hiệu đau đầu chiếm tỷ lệ cao 71,1%. Rối loạn thị giác: chỉ có 33,3% thai phụ có biểu hiện nhìn mờ. Tỷ lệ 36,7% thai phụ có dấu hiệu nônbuồn nôn kèm theo. Đặc điểm đau vùng gan hay hạ sườn phải: là dấu hiệu của nguy cơ tụ máu dưới bao gan chiếm tỷ lệ 34,4%. Huyết áp: THA chủ yếu độ 2 và 3 chiếm tỷ lệ 76,1%; HA tâm thu thấp nhất là 140 mmHg tỷ lệ 26,7%, cao nhất 220 mmHg tỷ lệ 4,4%; HA tâm thu trung bình 159,75 ± 20,03 mmHg. HA tâm trương thấp nhất là 90 mmHg tỷ lệ 25%, cao nhất 170 mmHg tỷ lệ 0,6%. HA tâm trương trung bình 103,94 ± 13,59. Về đặc điểm phù: có 98,3% thai phụ có biểu hiện phù, phù nặng chiếm tỷ lệ 68,9%. Kết luận: Tỷ lệ con rạ gặp hội chứng HELLP cao hơn con so. Tiền sử nội khoa tăng THA 63,6%; TSG/SG lần mang thai trước là 52,9%. Dấu hiệu đau đầu 71,1%. Rối loạn thị giác 33,3%; Đau vùng gan 34,4%. THA độ 2 và 3 chiếm tỷ lệ 76,1. Có 98,3% thai phụ có biểu hiện phù, phù nặng chiếm tỷ lệ 68,9%.
#lâm sàng #hội chứng HELLP
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN MẮC HỘI CHỨNG HELLP TẠI TRUNG TÂM CẤP CỨU BỆNH VIỆN BẠCH MAIHội chứng HELLP bao gồm các triệu chứng tan máu, tăng men gan và giảm tiểu cầu (tên viết tắt tiếng Anh của H = Haemolysis, EL = Elevated Liver enzymes, LP = Low Platelets) là một thể nặng của tiền sản giật gây nguy hiểm cho thai nhi và sản phụ. Nếu không chẩn đoán và xử trí kịp thời có thể dẫn đến biến chứng nguy hiểm như tử vong thai nhi thậm chí cả mẹ. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu hồi cứu trên 29 bệnh nhân điều trị tại khoa Cấp cứu bệnh viện Bạch Mai từ tháng 1/2018 đến tháng 8/2020 để tổng kết quá trình điều trị và đánh giá kết quả xử trí cấp cứu của nhóm bệnh nhân này. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ con chết là 13,7%, tỷ lệ con sống là 86,3 %. 100% bệnh nhân được đình chỉ thai nghén với tỉ lệ mổ lấy thai là 65,5%. Ba phần tư bệnh nhân được truyền máu và khoảng 10% bệnh nhân phải lọc máu liên tục. Tử vong của sản phụ là 6,9%; tỷ lệ khỏi ra viện là 93,1%. Việc xử trí nhanh chóng, kịp thời với các trường hợp được chẩn đoán là hội chứng HELLP, chuyển đến các đơn vị điều trị đặc biệt để theo dõi sát, làm giảm tỷ lệ biến chứng cũng như tỷ lệ tử vong cho cả bà mẹ và thai nhi.
#hội chứng HELLP
NHẬN XÉT ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN MẮC HỘI CHỨNG HELLP TẠI TRUNG TÂM CẤP CỨU BỆNH VIỆN BẠCH MAIHội chứng HELLP là một biến chứng nặng trong sản khoa.Nghiên cứu của chúng tôi được tiến hành nhằm đánh giá tình trạng lâm sàng và kết quả xét nghiệm của bệnh nhân có hội chứng HELLP vào khoa Cấp cứu A9, Bệnh viện Bạch Mai. Đề tài nghiên cứu hồi cứu được tiến hành trong 2 năm trên 29 bệnh nhân được chẩn đoán hội chứng HELLP thu được kết quả:Tỷ lệ hội chứng HELLP toàn phần là 62,1%, các sản phụ mang thai con rạ là 69,0%. Tuổi sản phụ hay gặp nhất là 25-29 tuổi, chiếm tỷ lệ 37,9% với tiền sử mắc tiền sản giật / sản giật là 23,3%. Tuổi thai khi được chẩn đoán hội chứng này gặp nhiều nhất là thai ≥ 38 tuần, chiếm tỷ lệ 44,8%. Triệu chứng lâm sàng phổ biến nhất là phù chiếm tỷ lệ 65,5%, đau vùng gan chiếm tỷ lệ 34,5%, tăng huyết áp là 51,7%. Các xét nghiệm hóa sinh: tiểu cầu ≤ 50000/mm3 chiếm 31%, AST ≥ 70 U/L chiếm 69%, ALT ≥ 70 U/L chiếm 75,9%. Các kết quả này có ý nghĩa quan trọng trong điều trị và tiên lượng nhóm bệnh nhân này.
#hội chứng HELLP #tiền sản giật.
Báo cáo trường hợp vỡ lách tự phát do huyết khối sau sinh trên sản phụ tiền sản giật nặng có biến chứng HELLPĐặt vấn đề: Huyết khối tĩnh mạch là một tình trạng y tế nghiêm trọng có thể dẫn tới nhiều biến chứng chảy máu trong thời gian mang thai, nghiêm trọng hơn là có khả năng gây tử vong cả mẹ và thai. Hội chứng HELLP là một biến chứng hiếm gặp (0,5 - 0,9% tổng số thai kỳ), trong đó có tỷ lệ rất hiếm xuất hiện kèm theo khối máu tụ ở gan hoặc lách (chiếm 2% trong số trường hợp HELLP). Tuy nhiên những khối máu tụ này có thể đe doạ ngay lập tức tới tính mạng của thai phụ trong trường gây căng giãn tạng quá mức dẫn tới vỡ tạng. Việc phát hiện chính xác và xử trí kịp thời sẽ giúp bảo vệ an toàn tính mạng cho sản phụ.
Ca lâm sàng: Sản phụ thai 35 tuần 5 ngày nhập viện trong tình trạng tiền sản giật nặng có biến chứng HELLP được mổ lấy thai và sau mổ phát hiện huyết khối tĩnh mạch nhiều lách kèm theo tình trạng chảy máu trong ổ bụng. Trong quá trình đánh giá nguyên nhân chảy máu, chúng tôi phát hiện đường vỡ lách 2cm và đã phẫu thuật cắt lách. Quá trình hậu phẫu của bệnh nhân ổn định và ra viện sau 1 tuần.
Kết luận: Hội chứng HELLP là biến chứng nặng của thai kỳ và có thể gây ra nhiều biến chứng khác. Phát hiện các biến chứng đi kèm hội chứng HELLP giúp đưa ra thái độ xử trí kịp thời, tránh ảnh hưởng nặng nề tới bệnh nhân.
#tiền sản giật #hội chứng HELLP #huyết khối
Kết Quả Tốt Trong Hội Chứng HELLP Kèm Các Khối Máu Khu Nã Não Dịch bởi AI Neurocritical Care - Tập 14 - Trang 276-280 - 2010
Hội chứng HELLP liên quan đến tỷ lệ tàn tật và tử vong cao, chủ yếu do xuất huyết nội sọ (ICH) và/hoặc đột quỵ. Sự hiện diện của các biến chứng khác càng làm xấu đi tiên lượng. Chúng tôi trình bày một trường hợp hiếm gặp của hội chứng HELLP, xuất hiện với ICH và sau đó bị biến chứng bởi co giật, đông máu nội mạch lan tỏa và suy thận cấp. Việc quản lý y tế và phẫu thuật tích cực cho ICH, hội chứng HELLP và các biến chứng liên quan đã dẫn đến phục hồi chức năng tốt. Hạ thân nhiệt có vẻ như là một phương pháp hỗ trợ tốt trong điều trị. ICH liên quan đến hội chứng HELLP khi được quản lý tích cực có thể có sự phục hồi thần kinh đáng kể.
#Hội chứng HELLP #xuất huyết nội sọ #đột quỵ #phục hồi chức năng #hạ thân nhiệt
Tiền sản giật và Hội chứng HELLP như những tình huống khẩn cấp trong sản khoa Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 107 - Trang 96-100 - 2012
Tiền sản giật và hội chứng HELLP là những bệnh lý đa hệ thống trong thai kỳ, hiện tại chưa có liệu pháp điều trị nguyên nhân. Về mặt lâm sàng, hội chứng HELLP được coi là một dạng biểu hiện lâm sàng đặc biệt của tiền sản giật. Các bác sĩ sản khoa luôn đứng trước hai lựa chọn trong quản lý lâm sàng đối với cả hai tình trạng này: Một mặt, họ phải tránh những biến chứng nghiêm trọng cho mẹ, mặt khác, việc kéo dài thai kỳ, đặc biệt là đối với những trường hợp tiền sản giật khởi phát sớm trước tuần thứ 34 của thai kỳ, lại là mong muốn từ góc độ thai nhi. Do cả hai bệnh này có mức độ nghiêm trọng và tiến triển khó đoán trước, các tình huống khẩn cấp nghiêm trọng có thể xảy ra. Một sự hợp tác liên ngành tốt giữa bác sĩ sản khoa và bác sĩ gây mê đảm bảo kết quả tối ưu cho thai phụ trong những tình huống này. Bài viết này cung cấp cái nhìn sâu sắc về cả hai tình trạng bệnh lý và cách quản lý lâm sàng của chúng.
#Tiền sản giật #Hội chứng HELLP #Sản khoa #Biến chứng thai kỳ #Quản lý lâm sàng
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BƯỚC ĐẦU HỘI CHỨNG HELLP Ở THAI PHỤ TIỀN SẢN GIẬT TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ NĂM 2020 - 2021 Đặt vấn đề: Hội chứng HELLP gồm tán huyết, tăng men gan và giảm số lượng tiểu cầu là một bệnh cảnh đe dọa tính mạng được xem như biến chứng của bệnh lý Tiền sản giật (TSG) nặng. Hiện nay có nhiều phương pháp để sàng lọc và chẩn đoán bệnh lý TSG, HELLP vẫn đang là vấn đề đáng quan tâm trong thực hành lâm sàng. Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, và đánh giá bước đầu kết quả điều trị hội chứng HELLP ở thai phụ TSG. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Tiến cứu dọc, báo cáo hàng loạt ca lâm sàng trên 15 thai phụ thoả điều kiện nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu: Thai phụ thoả tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng HELLP được chẩn đoán xác định mắc TSG tại khoa Sản – BV Đa khoa Trung Ương Cần Thơ từ 01/12/2020 – 01/12/2021. Kết quả: Trong 83 thai phụ TSG nhập viện, có 15 thai phụ có hội chứng HELLP, 60% là HELLP toàn phần, bán phần chiếm 40%, tỷ lệ mang thai con rạ là 73% với triệu chứng thường gặp nhất là đau bụng thượng vị, hạ sườn phải. Huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương trung bình là 149,68±27,63mmHg và 94,84±16,91mmHg. 80% trường hợp giảm tiểu cầu và 66,7% tăng men gan. Đạm niệu trung bình khi vào viện 2,48±3,20g/l. Men gan, LDH có xu hướng tăng khi vào viện và giảm xuống sau khi chấm dứt thai kỳ. Biến chứng thường gặp nhất ở mẹ là rối loạn đông máu chiếm 71,4%. Tỷ lệ thai chết lưu và chu sinh chiếm 25%, 60% trẻ sơ sinh có APGAR 5 phút trên 8 điểm. Thời gian nằm viện trung bình là 9,14±3,66 ngày. Kết quả điều trị chung tốt 74,2%, phương pháp chấm dứt thai kỳ chủ yếu là mổ lấy thai. Kết luận: Hội chứng HELLP vẫn còn là biến chứng sản khoa nguy hiểm, hậu quả lên thai kỳ nặng nề cần được chẩn đoán và xử trí tích cực.
#Hội chứng HELLP #tiền sản giật #kết quả điều trị #sản phụ #chấm dứt thai kỳ